Nguyễn Thụy Đan, nhà nghiên cứu Hán Nôm và lịch sử Đông Á: “Học thuật phải tinh tế, nhưng không nhất thiết phải bất cận nhân tình.”

Nguyễn Thụy Đan (sinh năm 1994) là người Mỹ gốc Việt, hiện là nghiên cứu sinh ngành lịch sử Đông Á tại Đại học Columbia theo diện học bổng. Anh đồng thời tham gia nghiên cứu và giảng dạy với vai trò trợ giảng tại Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Đông Á của trường. Hướng nghiên cứu của anh tập trung vào lịch sử tư tưởng Việt Nam thời cận đại, đặc biệt là diễn ngôn và văn hóa của giới sĩ phu vào cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19.

Trước đó, anh từng tốt nghiệp Đại học Houston với hai bằng cử nhân: Văn chương Anh và Biểu diễn âm nhạc. Ngay từ khi còn là học sinh trung học tại Hoa Kỳ, anh đã tự học và nghiên cứu Hán Nôm.

Bên cạnh công việc nghiên cứu, Nguyễn Thụy Đan còn là một nhà thơ. Năm 2024, tập thơ đầu tay của anh viết bằng tiếng Việt, có tựa đề in illo tempore, được Nhà xuất bản Thanh Niên và FORMApubli ấn hành tại Việt Nam.

Xin chào Nguyễn Thụy Đan, anh sinh ra và lớn lên ở Hoa Kỳ nhưng đã tự học Hán Nôm. Điều gì khiến anh chọn nghiên cứu hệ thống cổ ngữ của Việt Nam thay vì các ngôn ngữ phổ biến khác? Quá trình tự học này có những thách thức nào?

Nhiều người hay hỏi tôi những câu hỏi thế này, và thú thật là tôi càng ngày không chắc chắn phải trả lời thế nào. Có lẽ là vì sở thích của tôi về cổ ngữ nó đến quá sớm, nên tôi cũng chưa bao giờ hiểu được nguồn cơn một cách khách quan. Chỉ có vài mốc thời gian cụ thể. Ví dụ, lần đầu tiên đặt chân đến Việt Nam hồi tôi còn khoảng mười hai mười ba tuổi, tôi xin bố mẹ nhờ họ hàng ở Hà Nội tìm thầy dạy chữ Nôm cho tôi. Việc đó không thành, nên bố mẹ mua cho tôi một cuốn tự điển chữ Nôm dày cộm và cuốn tự điển Hán Việt của Thiều Chửu. Sau đó, năm tôi mười lăm tuổi, nhân một mùa hè về Việt Nam giúp việc các dì dòng Đức Bà Truyền Giáo, khi biết được tôi có sở thích về văn chương, một bà soeur lớn tuổi giới thiệu cho tôi vài bài thơ Đường. Tôi không bao giờ nghĩ về việc “tự học” như một thành tích để tự hào hay khoe khoang. Khách quan mà nói, với tôi thì điều đó liên quan đến cảnh ngộ thực tế hơn là ý chí cá nhân.

Cuốn sách tiếng Việt đầu tiên anh đọc là gì? Nó đã để lại ấn tượng gì đặc biệt và cảm xúc của anh khi tiếp cận nó như thế nào?

Tôi không nhớ chính xác. Nhưng có lẽ nó là một trong hai cuốn Thánh giáo kinh nguyện và Chân Lý Đời Đời. Thánh giáo kinh nguyện là cuốn kinh nguyện của giáo phận Hà Nội, nhưng bản tôi đọc lúc còn trẻ là bản rất cũ, trong đó còn có lời kinh cầu nguyện cho các bậc vua chúa quan quyền cai trị nước Annam này. Cuốn Chân Lý Đời Đời là một bản dịch từ trước tác của Alfonso Liguori, tức là người sáng lập Dòng Chúa Cứu Thế. Cuốn đó bao gồm những suy gẫm về sự ngắn ngủi và phù phiếm của cuộc sống loài người, về sự chết, về quá trình thối rữa mục nát của tử thi, v.v. Tôi biết câu trả lời này chắc là hơi bất ngờ. Nếu phân tích kỹ, thì có lẽ tôi đã chịu ảnh hưởng không ít từ những cuốn như vậy. Từ nhỏ tôi đã rất thích lối văn nôm na trong kinh nguyện Công giáo, đương nhiên là trong kinh sách thời trước, chứ không phải lối hành văn bây giờ. Đó cũng là chính lý do vì sao tôi đã muốn tìm hiểu về chữ Nôm. Có lẽ tập quán đọc của tôi cũng đã định hướng một số quan niệm của tôi về cách dùng tiếng Việt.

Là một nhà nghiên cứu về lịch sử và ngôn ngữ, anh có nhận định gì về mối quan hệ giữa hai lĩnh vực này trong việc hình thành căn cước của một dân tộc? Khi nghiên cứu những vấn đề này cho trường hợp của Việt Nam, theo anh, điểm nào là đáng chú ý và thử thách nhất?

Câu hỏi này phức tạp. Dòng chủ lưu trong học giới, đặc biệt là học giới Hoa Kỳ, có khuynh hướng phê phán và hoài nghi đối vấn đề về căn cước dân tộc. Đại để, sự hình thành của những khái niệm về căn cước cá nhân và quần thể là một hiện tượng có thể nhận ra và phân tích trong nhiều giai đoạn lịch sử. Theo lối gọi và tư duy phổ thông thì một số những khái niệm này sẽ được hiểu là căn cước dân tộc. Tôi xin không phân tích ngọn nguồn một cách chặt chẽ theo kiểu học thuật. Trong trường hợp Việt Nam, tôi nghĩ ngôn ngữ là một cánh cửa hé lộ những vấn đề không dễ dàng phân tích. Sau nhiều năm thật sự “sống” và “thở” trong thế giới tư duy của người xưa, cụ thể là trong lưu trữ của những văn bản hiện tồn từ thế kỷ mười tám và mười chín, tôi càng ngày càng không chắc là ở giữa chúng ta và tiền nhân có sự liên kết gì về mặt ngôn ngữ và tư duy hay không. Có nhiều nhân vật, có khi là đại đa số tầng lớp tinh hoa, dường như cả đời không hề viết tiếng Việt mà chỉ viết bằng Hán văn. Thậm chí có những người còn chỉ trích và lên án việc sáng tác bằng quốc âm. Chúng ta có thật sự hiểu được tư duy của những người như vậy không? Không những ngữ cảm của họ, mà kể cả đời sống tinh thần của họ, có lẽ khác chúng ta một cách gần như tuyệt đối. Kể cả khi đọc những văn bản viết bằng chữ Nôm – tức là những văn bản tiếng Việt xưa – có sự khoảng cách nhất định với tiếng Việt thông dụng bây giờ. Điểm thú vị nằm ở đây, mà thử thách cũng nằm ở đây. Để thật sự nghiên cứu người xưa một cách tinh vi và thấu đáo, chúng ta phải nhận ra khoảng cách giữa họ và chúng ta. Cách gọi họ bằng những từ ngữ mỹ miều như cha ông, tổ tiên, v.v. là một bẫy lớn giết chết khả năng tưởng tượng và tư duy. Nhưng chủ trương này rất dễ sa vào một cực đoan khác, là thái độ khinh bạc thường đi kèm chủ nghĩa giải cấu trúc. Học thuật phải tinh tế, nhưng không nhất thiết phải bất cận nhân tình.

Nếu có thể đặt một câu hỏi cho tiền nhân về lịch sử hoặc văn hóa Việt Nam, đó sẽ là ai và anh muốn hỏi điều gì?

Đây là lần đầu tiên có người đặt câu hỏi này với tôi. Ở thời điểm hiện tại, tôi đang đọc nhiều từ sĩ đại phu thời Tự Đức. Thế hệ này rất phức tạp và chưa được lưu ý một cách xứng đáng. Họ là những người sinh trưởng vào thời Gia Long, làm quan qua các đời Minh Mạng, Thiệu Trị, và đương đầu với những biến cố lịch sử không tiền khoáng hậu vào thời Tự Đức. Có thể nói là họ đã chứng kiến những bước thăng trầm lớn nhất của lịch sử Việt Nam thời cận hiện đại. Tôi sẽ muốn gặp một nhân vật như Vũ Phạm Khải hay Vũ Duy Thanh, tức là những người được xem như phái thủ cựu, nhất định không thỏa hiệp bất cứ điều gì với Tây phương, từ tôn giáo đến kỹ thuật. Khi đọc văn của họ (đương nhiên là họ chỉ viết bằng Hán văn), tôi thấy trình độ học thức và thẩm mỹ của họ là một đỉnh cao trong lịch sử Việt Nam thời cận hiện đại. Tôi muốn biết thêm về thế giới tư duy và văn hóa của họ. Họ đã được giáo dục thế nào, đời sống tinh thần của họ được nuôi dưỡng thế nào, định nghĩa và cách hiểu của họ về nền văn minh mà họ đã ra sức để bảo vệ hết mình là gì?

Trong suốt quãng đời học tập của anh, có một người thầy hay một lời dạy nào theo anh mãi và ảnh hưởng lớn đến anh không?

Tết sau cùng trước khi qua đời, cố giáo sư Đàm Quang Hưng có chúc tôi “hãy làm một học giả lớn cho Việt Nam.” Thầy Hưng với tôi không phải là nghĩa thầy trò mà là tình bạn vong niên. Lúc thầy chúc tôi như vậy, tôi còn chưa có ý nghĩ là sẽ theo học chương trình tiến sĩ. Đương nhiên, tôi cũng chịu nhiều ảnh hưởng từ gia đình.

Vì một số lý do khách quan lẫn chủ quan, một số người trẻ (mà thậm chí cả không còn trẻ) tại Việt Nam ít quan tâm đến lịch sử và tiếng nói của dân tộc mình. Là một người từng đứng lớp giảng dạy về lịch sử và Hán Nôm, theo anh, có cách nào hiệu quả để khơi gợi câu hỏi về nguồn cội và giá trị truyền thống trong tâm thức người trẻ hay không? Ở đây, tôi không bàn đến những giải pháp tổng thể và vĩ mô mà chỉ muốn nói đến những gì một người làm giáo dục hay một người đi trước có thể làm được ở mức độ cá nhân, như những người thầy và lời dạy đã theo anh từ thuở nhỏ.

Tôi nghĩ là bản thân trăn trở này, hoặc chí ít là cách đặt vấn đề, sớm muộn sẽ đâm vào ngõ cụt. Có thể lấy ví dụ từ hiện tượng “cổ phục” bây giờ đã trở thành một phong trào đại chúng. Ở trọng tâm của hiện tượng này một nghịch lý: chế độ y phục của người xưa về cơ bản đã loại trừ khả năng lựa chọn cá nhân; áo mũ của từng người đã được quy định chặt chẽ theo tiêu chuẩn xã hội để củng cố trật tự giai cấp. Nhân danh việc khôi phục văn hóa người xưa, phong trào “Việt phục” đang chủ trương một thế giới quan hoàn toàn trái ngược, thậm chí là phạm thượng, đối với văn hóa đó. Chưa kể khái niệm “Việt phục” là một phát minh không có cơ sở trong lịch sử. Câu hỏi này liên quan đến điều tôi nói ở trên về cái quan trọng của việc nhận chân khoảng cách giữa chúng ta và tiền nhân. Khi lãng mạn hóa quá khứ và nhìn nhận tiền nhân bằng tư duy hiện đại, chúng ta đang trưng dụng truyền thống để tự tôn bản thân. Tôi nghĩ là riêng nói về người Việt, trước khi đi sâu vào truyền thống, cần phải rũ bỏ rất nhiều lớp định kiến. Khi nói về chuyên môn của tôi với những người ngoài ngành, tôi đã nhiều lần phải dừng câu chuyện giữa chừng vì đối phương cứ ỷ y rằng mình đã hiểu vấn đề – trong khi đó họ thậm chí chưa đủ nền tảng để hiểu vấn đề đó là gì. Ở mức độ cá nhân, tôi lại nhớ đến một cách ngôn Latinh: Nemo dat quod non habet, đại ý là điều ngươi không sở hữu, ngươi không thể đem ban cho người khác. Nếu bản thân mình chưa thật sự lặn lội với truyền thống, làm sao có thể truyền lửa cho người khác?

Được biết, anh đã làm cha. Có bao giờ anh thoáng nghĩ về những cách biệt thế hệ giữa anh và con anh về sau này không, nhất là khi anh tự nhận rằng mình “sống” và “thở” nhiều trong thế giới tư duy của người xưa, và đặt trong bối cảnh nuôi dạy con cái trên đất Hoa K?

Nói thật là tôi có cảm giác cách biệt thế hệ với cả vợ tôi, huống chi là với con tôi. Một phần cũng là vì hoàn cảnh đặc thù của gia đình tôi. Mẹ tôi là con gái út trong một gia đình có mười tám người con (sau mẹ còn một người cậu). Tôi có những người bác ngang tuổi với ông bà của bạn bè tôi, chưa kể những người anh chị họ của tôi ngang tuổi với bố mẹ họ. Kinh nghiệm và ký ức tập thể của gia đình ảnh hưởng tôi không ít. Tôi nghĩ là có nhiều nỗi niềm, thế hệ sau này sẽ khó hình dung, đừng nói đến việc chia sẻ. Việc sinh ra ở giao điểm nhiều thế hệ và biến cố lịch sử như vậy để rồi lúng túng không biết phải (hoặc nên) truyền lại điều gì cho thế hệ sau luôn ám ảnh tôi như một nỗi buồn hiện sinh thường trực. Có thể nói đấy là nguyên nhân chính thúc đẩy tôi tự tìm một phong cách thơ đương đại để ký thác những trăn trở không đơn thuần mang tính cá nhân, mà còn mang tính cộng đồng của cả một thời đại. Thời điểm hiện tại, vợ chồng tôi đang cân nhắc sau này sẽ tự giáo dục con cái ở nhà (homeschool). Thế giới đang thay đổi nhanh chóng, nhiều mô hình và giả định cũ đã lỗi thời, cho dù không có điều gì trắng đen một cách tuyệt đối.

Với tư cách là một nhà nghiên cứu ngôn ngữ và một nhà thơ, theo anh, trong bối cảnh toàn cầu hóa, ngôn ngữ thi ca tiếng Việt cần thích ứng ra sao để vừa phát triển và hội nhập, vừa khiến người ta đọc vào thì biết ngay đó là thơ tiếng Việt viết bởi một nhà thơ người Việt, chứ không phải là một bản dịch tiếng Việt từ một bài thơ viết bằng tiếng nước ngoài?

Khi đặt vấn đề này trong bối cảnh lịch sử, chúng ta phải ý thức rằng khái niệm sáng tác bằng tiếng Việt một cách độc lập, không có liên quan đến một ngôn ngữ khác là một khái niệm tương đối mới, thậm chí mới đầy một trăm năm. Chúng ta vừa may mắn vừa bất hạnh khi sinh phải giai đoạn hỗn tạp này. Tiếng Anh đã phải trải qua vài thế kỷ tương tự. Thậm chí khái niệm xem văn chương tiếng Anh như một môn học chính đáng mới bắt đầu từ thế kỷ hai mươi. Để bàn chi tiết về câu hỏi này, có lẽ tôi phải viết cả tập tiểu luận. Nếu tóm tắt thành một ý, tôi cho rằng người viết phải đọc rất nhiều, đọc gấp mười lần, có khi gấp trăm lần so với việc viết. Nhiều định kiến của chúng ta phát xuất từ chỗ đọc chưa đủ rộng, không tự thoát thân được khỏi phạm vi và hạn chế của thời đại và thế hệ.

Anh sinh ra và lớn lên ở Hoa Kỳ, nói và viết được tiếng Việt, thậm chí làm thơ bằng tiếng Việt, lại nghiên cứu Hán Nôm, có khi nào trong mơ anh dùng hơn một ngôn ngữ?

Có khi ban ngày tập trung đọc sách, vào buổi tối tôi nằm mơ bình phẩm văn thơ bằng tiếng Hán.

Linh Văn thực hiện

Published by


Leave a comment