Persephone là con gái của Zeus và Demeter, nữ thần trông coi nông nghiệp và mùa màng. Một ngày nọ, đang hái hoa trên đồng thì nàng bị Hades, chúa tể địa ngục, bắt cóc xuống địa ngục làm vợ. Demeter, mẹ nàng, vì chuyện này mà đau buồn và bỏ bê công việc, khiến đất đai khô cằn. Dù Zeus đã ra lệnh cho Hades trả Persephone lại, nàng vẫn phải ở lại đó trong một khoảng thời gian nhất định trong năm, vì đã lỡ nếm những hạt lựu đỏ của chốn địa phủ.
Persephone, vì thế, vừa là nữ thần mùa xuân, mỗi khi nàng trở lại trần gian và mang theo sức sống cho mẹ nàng, nhưng đồng thời cũng là hoàng hậu cõi âm ti. Những tháng nàng tạm xa trần thế, Demeter buồn bã, cây cối héo úa, sương tuyết phủ dày. Nàng là nữ thần thuộc về hai cõi giới: cõi của mẹ, của ánh sáng và sự sống, và cõi của chồng, của bóng tối và đớn đau.
Louise Glück từng viết một bài thơ giàu triết tính về bi kịch của Persephone. Bà gọi Persephone là “the wanderer – kẻ lang thang”. Nàng hiện lên như kẻ có nhà mà lại như không: “Tôi không chắc tôi sẽ/ giữ từ này: có phải trần gian/ là “nhà” với Persephone?”
Bi kịch của Persephone là bi kịch của trưởng thành bằng đau đớn, của kẻ không thuộc trọn vẹn về nơi nào. Đó là bi kịch của phân ly hiện sinh và bản thể. Và thấu hiểu bi kịch của Persephone, với tôi, là chìa khoá giúp tôi mở cửa vào thế giới thi ca của Louise Glück.
Thơ của những nhà thơ lớn mang đến cho tôi niềm vui đọc và đón lấy những tia sáng minh triết nhỏ nhoi, có khi rất nhỏ, lọt qua khe nứt trên bề mặt ngôn ngữ. Có những lối khác nhau: Octavio Paz thu cả vũ trụ vào trong chữ; Tranströmer mở lối đến vô thức và tĩnh lặng sâu bên dưới những ảnh tượng thiên nhiên; Szymborska sử dụng trí tuệ của hoài nghi, của hài hước, và tri nhận, kể cả trong cái nhìn về những vật nhỏ bé; Czesław Miłosz đẩy người đọc đối diện trực tiếp với thực tại và những biến động lịch sử.
Vậy lối nào là lối của Glück?
Như Persephone dạo bước xuống địa ngục mỗi năm để trở lại trần gian, Glück chạm vào minh triết bằng nỗi khổ.
Cuộc đời với Glück chừng như chẳng có lúc nào dễ dàng. Ai đã từng đọc tiểu sử của bà sẽ thấy đó là một chuỗi những biến cố khác nhau. Những tập thơ của bà vừa là những bản tổng kết nhưng cũng vừa là cách giúp bà nhìn rõ hơn, và do đó có thêm sức mạnh để bước qua mỗi giai đoạn trong đời. Có những chặng quá đỗi khắc nghiệt và u tối, như trong Ararat hay Averno. Có những chặng bà phải tìm đến câu trả lời, dù là sự im lặng vô biên, từ thiên nhiên và từ “thượng đế trong lòng mình”, như trong The Wild Iris. Có những chặng, về sau này, bà đã thôi thắc mắc hoài nghi, mà chấp nhận và quan sát hiện sinh với cái nhìn khoan thứ và hoà giải, như trong A Village Life.
Glück viết rất nhiều về cái chết, về mùa đông, về tuyết, về cái lạnh khắc nghiệt đến bất nhẫn, nhưng đồng thời cũng viết về hoa, về thần thoại, về những vẻ đẹp cùng một lúc mong manh và bền bỉ của cõi dương gian. Dù viết ở đối cực nào, có lẽ điều bà làm tốt nhất trong thơ, và qua đó tạo ra một giọng riêng, là giữ cho giọng ấy ở mức độ tĩnh tại và tiết chế nhất có thể, và do đó, cân bằng. Ta không thể nói được gì xa hơn vết thương của mình nếu chưa thực sự đi qua nó mà còn đang ở trong nó, và cách duy nhất để làm điều ấy là giữ một khoảng cách với nỗi đau của mình, quan sát và phân tích nó như một nhà giải phẫu với một con dao nhỏ trong tay.
Hiếm ai nói về cái chết bình thản thế này: “cái chết không thể làm hại ta/ nhiều hơn mi có thể làm hại ta/ cuộc đời yêu dấu”. Hiếm ai kể về bóng tối bằng giọng nói vừa yếu ớt lại vừa rùng rợn của một hạt giống nhỏ dưới đất sâu, và nhờ đó đã khải lộ về tái sinh kể từ lúc bắt đầu: “ở tận cùng nỗi đau của tôi/ có một cánh cửa”. Hiếm ai khiến người đọc phải đối diện với cái lạnh lẽo vô vọng trong quan hệ hôn nhân, như thể là điều hiển nhiên, mà thiếu vắng nó mới là thứ khiến người trong cuộc lo ngại: “lời nói, đối với anh, là để sắp xếp, để làm ăn/ không bao giờ dành cho sự giận dữ, không bao giờ dành cho sự dịu dàng/ nàng vuốt lưng anh/ nàng úp mặt vào đó/ dẫu giống như úp mặt vào tường”
Ở cực ngược lại, vẻ đẹp trong thơ Glück chưa bao giờ là vẻ đẹp dư thừa. Nó hiếm hoi, nhưng quý giá. Như hiệu ứng của một bông hoa rất nhỏ nở trên tuyết, một con mắt he hé mở ra nhìn đời sau mùa đông dài ảm đạm, để khiến nhân loại còn biết khóc vì cái đẹp, một cái đẹp đơn sơ nhưng khó có thể thay thế, và do đó, biết trắc ẩn để yêu thương: “sợ hãi, vâng, nhưng ở giữa các người thêm lần nữa/ khóc lên vâng mạo hiểm nỗi sướng vui/ trong làn gió nguyên sơ của thế giới mới”
Vậy điều gì khiến Glück làm được điều đó: tạo ra những nghịch lý và đặt chúng cạnh nhau trong những bài thơ, giữa sáng và tối, u buồn và hy vọng, khắc nghiệt và dịu dàng, giận dữ và bao dung?
Phải chăng bà đã đi qua cuộc đời này như Persephone, dạo hết một vòng địa ngục ngay khi đang sống, để thấu cảm đến tận cùng những điều có thể và không thể, và rồi, trở lại khi xuân đến, nói với chúng ta bằng tiếng vọng từ thế giới bên kia, bởi “bất cứ thứ gì trở về từ quên lãng đều trở về/ để tìm một giọng nói”
Đó là hành trình của thi nhân. Những người vừa tạo giọng vừa truy tìm giọng nói. Viết là chuyện của biết và không biết. Với Glück, bà tìm ra giọng của mình chỉ khi đã trở về từ quên lãng của âm ti. Và giọng ấy, trong vẻ rực rỡ của một bông diên vĩ, mang theo kí ức đau đớn của Persephone về những ngày tăm tối.
Dẫu sao, nàng đã từng một lần đẹp trinh trắng và thơ ngây, nếu nàng còn trí nhớ.
Linh Văn
Leave a comment