Ngày đầu tiên đi học của tôi là vào một ngày tháng Chín nào đó sau gần 20 năm so với cái dấu mốc mà như mơ ước của ông Trịnh Công Sơn trong một câu hát rằng “Bắc Nam Trung ơi đoàn kết một miền/ Phá biên thuỳ mở rộng đường thêm”, nhưng chắc là chưa đến khi Mỹ dở bỏ cấm vận hoàn toàn cho Việt Nam.
Ngày nay, nếu nhìn lại, người ta dễ nói này nói nọ, nhưng tôi nghĩ khi ông Sơn viết câu đó, năm ông hai mươi mấy tuổi, nó chỉ là một ước vọng tuổi trẻ đơn thuần. Tuổi trẻ thời nào cũng đẹp. Người ta nghĩ gì thì viết đó, làm đó. Một cái đẹp nhiều phần trữ tình mơ mộng, nhưng chắc chắn không kitsch. Nhưng thôi, đây lại là một chuyện khác.
Nếu tâm trí tôi là một chuyến tàu khứ hồi, và tôi của bây giờ là một hành khách bước lên chuyến tàu đó, tôi chắc rằng giữa tôi và những con người của đầu những năm 90, gồm cả tôi trong quá khứ, có một khoảng cách vô biên.
Nó là thứ khoảng cách được tạo ra bởi nhận thức, công nghệ, thông tin, tuổi tác, và vô vàn thứ khác của thời đại. Một thời đại không còn trung tâm. Không còn chân lý nào đáng kể. Tôi sẽ không quá bất ngờ nếu như một buổi sáng sớm, người ta lay tôi dậy để nói với tôi rằng mặt trời sẽ không mọc từ đằng Đông nữa. Nhưng thời đó thì khác. Rất khác. Những thứ tạo ra cái khoảng cách kia, người thời đó không có quyền sở hữu như tôi. Nếu có cơ hội quay lại, tôi nên là một bóng ma đến từ tương lai, đứng bên này đường mà nhìn sang bên kia. Họ ở đó. Tôi nên im lặng nhìn họ. Nhìn và không nói gì. Thậm chí không nên để họ phát hiện ra tôi, dù chỉ qua ánh mắt. Ngôn ngữ, dưới mọi hình thức chứ không riêng gì tiếng nói, cùng một lúc có thể vừa là một cây cầu nối giữa người với người, nhưng cũng có thể là một cái máy ủi hay một trái bom phá nát cây cầu đó.
Ngược lại, tôi không phải là kẻ đứng cao hơn họ. Họ sở hữu sự ngây thơ và mộc mạc, thứ mà tôi hay nhiều người bây giờ buộc phải thừa nhận với nhau rằng chúng ta đã vĩnh viễn mất đi. Có một số mất mát trên đời này có thể tìm lại được. Sự ngây thơ thì không. Persephone chỉ còn kí ức về trinh nguyên sau một vòng dạo quanh địa ngục, chứ mãi mãi nàng không còn trinh nguyên về cả thân thể lẫn tâm hồn.
Tôi sẽ đứng ở đó, sau một bụi cây hay bụi hoa, thời ấy những thứ đó rất nhiều, tôi sẽ đứng ở đó mà nhìn đứa trẻ tôi khoanh tay chào các thầy các cô. Và chúng ta đừng nên quá ngạc nhiên nếu hơn một nửa trong số đó là người Bắc di cư từ năm 1954. Lại một dấu mốc lịch sử đau đớn và không thể không buồn khi nghĩ đến. Thậm chí, bạn tin hay không thì tuỳ, ban giám hiệu có 3 người thì 2 trong số đó là họ, những người Bắc 54. Người còn lại là một người Nam, một “hạt giống đỏ” nếu ta muốn gọi thế.
Tôi sinh ra và lớn lên ở một vùng ven. Một vùng nông thôn. Ở đó, có một cái làng gồm những người công giáo di cư từ các tỉnh phía Bắc vào năm 1954. Khi gia đình tôi vào Nam thì họ đã ở đó hơn 20 năm. Chị dâu của tôi là con một gia đình như vậy. Một vài anh rể của tôi lại khác. Họ là những người Bắc di cư vào Nam sau năm 1975. Một anh rể khác lại có xuất thân gia đình vừa theo quốc gia vừa theo cộng sản. Gia đình tôi có là gì đâu ngoài một mẫu hình thu nhỏ, như những mảnh vỡ của đất nước này được dán lại bằng tình thương yêu của mọi người với nhau. Bạn có thể khinh rẻ hay chối từ thứ thẩm mỹ của lòng thương. Nhưng đó là thứ thẩm mỹ mà chúng ta sinh ra trên đời này đã có. Nó ở trong máu của chúng ta một hôm nào nhớ lại. Mẹ bạn không thương bạn khi sinh ra bạn thì bà còn biết làm gì hơn.
Tôi đã từng nghĩ trong suốt tuổi trẻ của tôi rằng sinh ra rồi lớn lên ở một vùng nông thôn xa xôi như vậy là một thiệt thòi. Bây giờ nghĩ lại, nếu không phải sinh ra ở đó, có lẽ tôi sẽ không bao giờ có những năm đầu đời theo học với nhiều thầy cô người Bắc 54 như vậy, những người mà đến lượt họ thì không ít trong số đó đã thụ hưởng một nền giáo dục mà ngày nay người ta ca ngợi nó là khai phóng, là nhân bản. Thời ấy, giáo viên rất thiếu. Trong ban giám hiệu, 2/3 không là đảng viên. Và kể cả khi họ, những người Bắc 54 công giáo nọ, có muốn vào đảng thì cũng không hề dễ. Lý lịch là một rào cản. Nhưng họ vẫn được làm quản lý, vẫn là tổ trưởng tổ chuyên môn. Bởi không phải họ thì là ai ở cái vùng nông thôn ít học này. Thầy giáo chủ nhiệm lớp 5 của tôi thậm chí còn đi dạy từ trước 1975.
Tôi đã không học được gì quá nhiều như các bạn nhỏ thời bây giờ đâu. Sách vở thiếu thốn. Kỹ năng sống càng không. Nhưng các thầy cô thời đó để lại trong đầu óc non nớt của tôi những kỷ niệm hầu hết là ấm áp. Cái ấm áp đến từ sự khiêm cung và quan tâm lẫn nhau, từ những thứ nhỏ nhất. Và dù tôi không đủ lớn hay có một phép mầu nào đó để biết liệu họ có mâu thuẫn với nhau về tư tưởng hay văn hoá vùng miền hay không, những gì họ thể hiện với nhau nói với tôi của lúc ấy và kể cả bây giờ là không. Mọi mâu thuẫn ngày một lớn dần và khó có thể cứu vãn như bất cứ một cuộc tranh cãi nào ở thời bây giờ là chuyện của về sau này. Khó có thể nói hết ra đây chỉ với một đôi câu.
Tư tưởng ở trên cao mà rọi xuống. Các học thuyết, do đó, cũng ở luôn trên ấy. Nhưng đời sống là những lát cắt thường nhật giữa người và người với nhau. Đời sống là một câu chào, một nụ cười, một giọt nước mắt, một cái cầm tay, một cơn giận dữ, một chút ghen tị cỏn con, hay một sự nín lặng vô tận. Và cả nỗi mơ hồ khó có thể gọi tên. Tư tưởng vốn rạch ròi còn đời sống thì không ít lần phản bội cái rạch ròi ấy. Đến chính mỗi chúng ta còn có lúc không hiểu nổi chúng ta. Và bởi thế, đừng lo, chúng ta là con người.
Tôi mừng khi thấy càng về sau này, những bạn trẻ có kiến thức ngày một nhiều. Họ nói chuyện Đông chuyện Tây rành rẽ. Họ biết tường tận thuyết này thuyết kia. Thậm chí, xem một học giả trẻ trên YouTube nói chuyện khoa học chính trị, tôi không khỏi thán phục bởi anh ta hiếm khi phải cắn lưỡi mà vấp một từ nào, hay vì vấp một từ nào mà phải cắn lưỡi. Một thứ diễn ngôn có đầu có đuôi, có lý có lẽ, đẹp và thẳng như mái tóc của anh ta vậy.
Nhưng thú thật có lúc tôi cũng không khỏi sợ hãi khi thấy tôi đang sống trong một thời đại mà xung quanh tôi ngập tràn tư tưởng và học thuyết. Dù thời bây giờ đã không còn một chân lý trung tâm nào. Korin cứ lạc mãi vào các trang của cuốn Chiến tranh và chiến tranh là bởi thế. Tư tưởng nào cũng tỏ ra đầy tính logic, không thể hợp lý hơn trong tầm giá của nó. Và mọi tranh luận, về các vấn đề xã hội lẫn nghệ thuật, khi áp các tư tưởng vào là mọi tranh luận không dứt. Cứ như vậy, các góc nhìn của thời bây giờ tạo ra một thứ phân phối xác suất ngày càng dạt về phía hai đuôi, thay vì dồn vào điểm giá trị trung bình ở giữa như trước kia. Một thời của phân phối chuẩn đã qua.
Nhưng rồi, dần dà tôi cũng đã bớt sợ hãi khi nghĩ kỹ hơn. Mọi học thuyết đều có những giả định của nó. Như những cái hàng rào để người ta chấp nhận thì bước vào, không chấp nhận thì đứng bên ngoài để ngó, mà không ngó thì cũng chẳng hề hấn gì.
Rốt cuộc, thứ giúp chúng ta hiểu sâu hơn bản chất của đời sống này không hoàn toàn nằm ở bản thân các học thuyết, dù chúng hẳn là cần thiết. Nó nằm ở chỗ chúng ta hiểu rõ tại sao học thuyết này thì cần giả định này, trong khi học thuyết kia thì cần giả định khác. Và xa hơn nữa, hiểu đời sống như chính nó, một dòng bất tận, tồn tại với không một giả định nào kèm theo. Cứ mỗi lần bỏ bớt một giả định, chúng ta lại càng kéo các học thuyết ấy đến gần hơn với con người.
Càng ngày, tôi càng nghĩ thứ minh triết gần hơn với con người không nằm ở trong các học thuyết. Nó nằm trong nghệ thuật. Một thứ nghệ thuật không biết đặt ra giả định, càng không cố giải quyết rốt ráo mọi thứ nhằm giúp chúng ta tìm được một câu trả lời thoả đáng cho tất cả. Chúng ta đừng mong thấy được cái lõi của mọi sự trong một tác phẩm nghệ thuật đích thực. Nó chỉ khơi gợi, đặt câu hỏi, và để chúng ta lại ở đó. Vậy chìa khoá giúp chúng ta đi xa hơn là gì? Không phải hoàn toàn là lý tính. Nó là trực giác.
Tôi không rõ mỗi người sẽ nuôi dưỡng trực giác của mình bằng cách nào. Có lẽ, không có giải pháp. Hoặc là không có giải pháp nào tối ưu.
Dù sao, tôi vẫn chọn cho mình lòng thương, thứ còn sót lại sau khi đã dùng hết mọi hiểu biết và trí tuệ của mình mà vẫn không thể nào hiểu cho đến tận cùng một vấn đề trong đời sống, dù “lòng thương”, “trắc ẩn”, mấy chữ ấy có thể mơ hồ, xưa cũ, lỗi thời, nghe đạo đức giả hay có vẻ ban ơn đến đâu chăng nữa. Bạn muốn thế thì nó thế. Chứ với tôi, nếu không hiểu hết thì thôi tôi đành phải cảm. Trước kia tôi nghĩ, hiểu cặn kẽ mới có thể thương. Bây giờ, tôi cho là hai thứ đó nên đi song đôi với nhau. Có lúc thứ này đi trước thứ kia, và ngược lại. Tôi không còn cho rằng hiểu được hoàn toàn con người là khả dĩ. Nhưng điều bất khả ấy không khiến tôi đoạn tuyệt. Nó chỉ giúp tôi thấy rằng giữa người với người, có những khi ta không thể đi cho đến tận cùng một lập luận hay một chân lý nào cả.
Bởi đôi khi lòng thương, hay nói đúng ra là giao cảm, mới là thứ giúp tôi đặt bản thân mình ở đó, trong giả tưởng, vào vùng đất của kẻ khác. Nó giúp tôi học cách bỏ bớt các giả định như nhón chân qua một cái hàng rào, thứ vốn ngăn tôi bước vào những lãnh địa chứa đầy sự hiểu biết và thông tin của tha nhân, nhưng không hẳn là không kèm theo các định kiến như một thứ hình phạt cho kẻ lỡ ngó nghiêng tò mò.
Linh Văn